Gọi cho tôi
 

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

TỐI CAO
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 98/TB-VKSTC

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2024

THÔNG BÁO

Rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự

"Tranh chấp kiện đòi tài sản thừa kế"

Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 9) nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về "Tranh chấp kiện đòi tài sản thừa kế", giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị V1 với bị đơn anh Nguyễn Viết Đ1, chị Nguyễn Thị H1 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố H, tại Quyết định giám đốc thẩm số 56/2023/DS-GĐT ngày 29/11/2023 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau:

I. NỘI DUNG VỤ ÁN 

Các nguyên đơn trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 273, tờ bản đồ số 26, diện tích 410m2 đất tại thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN là của cố Nguyễn Viết Đ (chết năm 1968) để lại cho cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Viết N (chết năm 1963), cụ Nguyễn Thị Th. Sau khi các bà đi lấy chồng, cụ Th ở lại trên đất đến năm 1992 cụ Nguyễn Viết L (ông nội bị đơn) qua lại trông nom. Năm 1993, cụ Th chết thì gia đình cụ L ở luôn trên thửa đất này, các bà không phản đối, khi anh Đi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hai bà không biết. Năm 2015, bị đơn tự ý tháo dỡ phần công trình phụ xây dựng trước đây, các bà đã ngăn cản và hai bên thống nhất trả 100m2 đất nhưng sau đó thay đổi ý kiến, nay các bà yêu cầu anh Đi trả lại toàn bộ thửa đất nêu trên. 

Các bị đơn trình bày: Anh Đ1, chị H1 xác nhận những người còn sống, đã chết, tài sản của cố Đ chết để lại như nguyên đơn trình bày. Cụ N là con trưởng ở cùng với các cố, do cụ N không có con trai nên bố anh là người được thừa hưởng thừa kế của dòng họ Nguyễn Viết. Năm 2004, nhà thờ bị hư hỏng nên dòng họ và gia đình anh đã sửa lại và anh xây thêm 50m2 để gia đình ở. Đất tranh chấp là của dòng họ để lại cho vợ chồng anh thờ tự, không phải đất của cụ N, nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện. 

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Cụ Nguyễn Thị Th1, cụ Nguyễn Thị T và đại diện dòng họ Nguyễn gồm các ông Nguyễn Viết Ph1, Nguyễn Viết B1, Nguyễn Viết Ph2 xác định anh Đ1 là trưởng dòng họ. Nguồn gốc đất tranh chấp là của dòng họ Nguyễn Viết được truyền lại cho dòng trưởng để thờ cúng, hương hỏa dòng họ. 

II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN 

Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2019/DS-ST ngày 30/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện QV, tỉnh BN quyết định (trích): 

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà T1 và bà V1. Giao cho bà T1, bà V1 được sử dụng 210m2 đất trong thửa đất số 273 tờ bản đồ số 26 (đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 30/9/2013 cho anh Đ1 và chị H1). Đất có tứ cận.....; bà TI, bà V1 được sở hữu các tài sản trên đất gồm 03 gian nhà gỗ xây gạch lợp ngói.... có tổng trị giá là 635.000.000 đồng. Giao cho anh ĐI, chị H1 được sử dụng 200m2 đất còn lại, có tử cận.... và được sở hữu các tài sản có trên đất.... có tổng trị giá 600.000.000 đồng (có sơ đồ kèm theo bản án). Các đương sự có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. 

2. Chấp nhận việc rút yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T1 và V1. 

Sau khi có bản án sơ thẩm, các bên đương sự đều có đơn kháng cáo. 

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 55/2020/DS-PT ngày 25/6/2020, Tòa án nhân dân tỉnh BN quyết định (trích):

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T1 và bà V1.

Giao cho bà T1, bà V1 được sử dụng 210m2 đất trong thửa đất số 273 tờ bản đồ số 26 (đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 30/9/2013 cho anh Đ1 và chị H). Đất có tứ cận.....; bà T1, bà V1 được sở hữu các tài sản trên đất gồm 03 gian nhà gỗ xây gạch lợp ngói.... có tổng trị giá là 635.000.000 đồng.

Giao cho anh ĐI, chị H1 được sử dụng 200m2 đất còn lại, có tứ cận.... và được sở hữu các tài sản có trên đất.... có tổng trị giá 600.000.000 đồng (có sơ đồ kèm theo bản án). 

Các đương sự có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. 

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà T1, bà V1 đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện QV, tỉnh BN. 

Sau khi có bản án phúc thẩm, anh Đ1 và các thừa kế của cố Đ có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. 

Ngày 17/9/2020 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại H kháng nghị theo thủ tục giám đốc đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. 

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 48/2022/DS-GĐT ngày 07/6/2022 Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại H, đã quyết định (trích): 

Không chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại H. 

Giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 55/2020/DS-PT ngày 25/6/2020, Tòa án nhân dân tỉnh BN. 

Sau khi có quyết định giám đốc thẩm, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Quyết định giám đốc thẩm nêu trên. 

Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 16/QĐ-VKS-DS ngày 11/9/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử: hủy Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân cấp cao tại H, hủy Bản án dân sự phúc thẩm và hủy Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện QV, tỉnh BN giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. 

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 56/2023/DS-GĐT ngày 29/11/2023 của 104Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Quyết định kháng 105nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 106

III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM: 

Trong vụ án này, các bên đương sự đều thống nhất xác định cố Nguyễn Viết Đ có hai người vợ là cố Nguyễn Thị C và cố Nguyễn Thị V. Cố Đ, cố C có hai con chung là cụ Nguyễn Viết N (chết năm 1963, có vợ là cụ Nguyễn Thị Th và hai con là các nguyên đơn) và cụ Nguyễn Viết Nh (đã chết, có 07 người con là các ông bà Ch1, Ch2, D1, T7, D2, D3 và Kh). Cố Đ, cố V2 sinh được 03 con chung là cụ Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị T2 và Nguyễn Viết L (đã chết). Cụ L có 6 con gồm ông Nguyễn Viết Đ3 (đã chết, vợ là bà Nguyễn Thị T3 và 03 người con là anh Nguyễn Viết Đ1, anh Nguyễn Viết T4, chị Nguyễn Thị T5), ông Nguyễn Viết Ph3, bà Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thị M2, ông Nguyễn Viết H và ông Nguyễn Viết B2. 

Các thừa kế của vợ chồng cổ Đ cho rằng thửa đất số 273 của vợ chồng cố Đ để lại, còn các ông Nguyễn Viết Ph1, ông Ngu Nguyễn Viết B1, ông Nguyễn Viết Ph2 (các Trưởng chi của dòng họ Nguyễn Viết) cho rằng thửa đất trên của dòng họ Nguyễn Viết truyền lại cho các đời Trưởng họ, nhưng đều không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Các đương sự đều thừa nhận vợ chồng cố Đ đã xây cất nhà ở trên thửa đất số 273 nhưng căn nhà này đã bị giặc đốt. Bà T1, bà V1 cho rằng căn nhà ngói 05 gian (hiện đã dỡ 02 gian) trên đất do vợ chồng cụ N xây dựng để ở, còn các đương sự khác lại cho rằng nhà này do con cháu đóng góp tiền xây dựng nhưng đều không đưa ra được chứng cứ. Thực tế, vợ chồng cố Đ cùng các con (trong đó có cụ Th1, cụ T) ở tại nhà đất này cho đến khi vợ chồng cố Đ chết. Do đó, có căn cứ xác định căn nhà ngói 05 gian (đã dỡ 02 gian) trên thửa đất số 273, diện tích 410m2 là do vợ chồng cố Đ tạo lập. 

Theo sổ "Tổng hợp đất thổ cư thôn GL thể hiện hộ bà T1 có diện tích 313m2, không có xác nhận, chứng thực của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tài liệu này cũng không phải là giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 1993, Điều 100 Luật Đất đai năm 2013. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm và Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại H lại căn cứ tài liệu nêu trên và lời khai của phía 140nguyên đơn để cho rằng vợ chồng cố Đ đã cho cụ N, cụ Th thửa đất số 273 là không đúng pháp luật. Tòa án các cấp chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T1, bà V1 và xem xét công sức duy trì tôn tạo của gia đình anh Đ1, từ đó giao bà T1, bà V1 được quyền sử dụng 210m2 đất, giao cho vợ chồng anh Đ1 được quyền sử dụng 200m2 đất là không đảm bảo quyền lợi của các thừa kế của cố Đ, cố C, cố V. 

Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ lấy lời khai của các con cụ Nh và người con của cụ L mà không đưa họ, cũng như các thừa kế khác của vợ chồng cố Đ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó, khi giải quyết lại, Tòa án phải đưa những người nêu trên tham gia tố tụng, nếu các đương sự có yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của vợ chồng cố Đ thì áp dụng các quy định của pháp luật về thừa kế khi còn thời hiệu khởi kiện để giải quyết mới bảo đảm quyền lợi của các đương sự. 

Từ những lý do trên, có căn cứ xác định thửa đất các bên tranh chấp là tài sản do cố Đ, cố V, cố C tạo dựng. Bà T1, bà V1 không có tài liệu, chứng cứ chứng minh các cố đã cho cụ N, cụ Th nhà đất. Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm chỉ căn cứ vào cuốn sổ “Diện tích đất thổ cư thôn GL" để cho rằng các cố đã cho vợ chồng cụ N đất, từ đó chia đất cho bà T1, bà V1 là không có cơ sở, đồng thời chia đất cho anh Đ1, chị H1 là không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của cố Đ, cố C và cố V. 

Từ vụ án trên, để nhận diện được dạng vi phạm tương tự, nhằm nâng cao công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 9) thông báo đến Viện kiểm sát nhân dân các địa phương nghiên cứu, tham khảo và rút kinh nghiệm chung./.


Nơi nhận:

- Đ/c Nguyễn Duy Giàng, PVT VKSNDTC (để báo cáo);

- VKSND tỉnh, TP trực thuộc TW;

- VKSND cấp cao 1, 2, 3;

- Lưu: VT, Vụ 9, HSKS

TL. VIỆN TRƯỞNG

KT. VỤ TRƯỞNG

VỤ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

PHÓ VỤ TRƯỞNG

 






Vương Hồng Quảng

  

Xem file: Tài liệu